Sunday, December 31, 2000

7 thực phẩm chữa bệnh loét dạ dày

Nguyên nhân và triệu chứng loét dạ dày

Loét dạ dày, còn gọi là viêm loét dạ dày. Loét thường gây ra bởi một loại vi khuẩn gọi là H. pylori, nhưng thuốc chống viêm không steroid, hút thuốc lá, uống rượu quá nhiều, một số loại thực phẩm và căng thẳng có thể làm nặng thêm loét của bạn.

Triệu chứng thường gặp bao gồm khó tiêu, đau bụng, nôn, ợ hơi, giảm cân và ợ nóng. Điều trị thường bao gồm thuốc men, một chế độ ăn uống và thay đổi lối sống lành mạnh, chẳng hạn như tránh các loại thực phẩm kích hoạt, tránh uống rượu, không hút thuốc và hạn chế thuốc chống viêm không steroid.

Thực phẩm giảm bớt triệu chứng loét dạ dày

Một số thực phẩm có thể giảm bớt các triệu chứng loét và đẩy nhanh quá trình chữa lành bệnh.

loet da day, thuc pham giau chat xo giam viem loet da day va duong tieu hoa

Thực phẩm giàu chất xơ giảm viêm loét đường tiêu hóa

1. Sữa chua

Bạn có thể điều trị loét dạ dày bằng cách ăn sữa chua. Sữa chua có chứa lactobacillus acidophilus, là chế phẩm sinh học, vi khuẩn "thân thiện" giúp duy trì sự cân bằng giữa các vi khuẩn tốt và có hại như H. pylori trong hệ thống tiêu hóa của bạn. Chế phẩm sinh học Probiotic có thể ngăn chặn nhiễm trùng do vi khuẩn H. pylori và giảm tác dụng phụ kháng sinh có thể xảy ra trong khi điều trị loét. Các loại thực phẩm khác có chứa probiotic bao gồm súp miso và thực phẩm từ đậu nành.

2. Dầu ô liu

Nấu ăn với dầu ô liu có thể giúp điều trị loét dạ dày. Thêm dầu ô liu có chứa phenol, hợp chất này ở lại trong dạ dày trong một khoảng thời gian dài. Các hợp chất này có thể hoạt động như một tác nhân chống vi khuẩn, và có thể ngăn chặn vi khuẩn H. pylori lan rộng và gây viêm niêm mạc dạ dày, nhưng cần nghiên cứu thêm trước khi xác định các mối quan hệ chính xác giữa dầu ô liu và vi khuẩn H. pylori.

Quả nam việt quất

3. Quả nam việt quất

Một thực phẩm có thể giúp điều trị loét dạ dày là nam việt quất. Quả nam việt quất rất giàu flavonoid, có thể làm giảm sự tăng trưởng của H. pylori, vi khuẩn gây loét và thúc đẩy chữa bệnh. Các loại thực phẩm khác có chứa flavonoid bao gồm cần tây, hành tây, tỏi và trà xanh.

4. Nước lọc

Bạn có thể điều trị loét dạ dày của bạn bằng cách uống 6-8 ly nước lọc mỗi ngày. Nước làm giảm triệu chứng loét của bạn bằng cách giữ cho cơ thể bạn đủ nước và tống các tạp chất ra ngoài.

5. Quả việt quất

Điều trị loét dạ dày của bạn bằng cách thêm một số quả việt quất tươi trong ăn sáng. Quả việt quất có chứa chất chống oxy hóa, có thể tăng cường hệ thống miễn dịch của bạn, giúp cơ thể bạn chống lại virus và các bệnh tật, giảm triệu chứng loét và thúc đẩy chữa bệnh. Những thực phẩm khác giàu chất chống oxy hóa bao gồm anh đào, bí đỏ và ớt chuông.

6. Thực phẩm giàu chất xơ

Một chế độ ăn giàu chất xơ trong thực phẩm có thể giúp vết loét dạ dày lành lại. Chất xơ có thể đẩy nhanh quá trình chữa bệnh và làm giảm nguy cơ phát triển các vết loét trong tương lai. Các loại thực phẩm có chứa một lượng lành mạnh của sợi xơ bao gồm mâm xôi, táo, lê, dâu tây, atisô, đậu Hà Lan, đậu khô nấu chín, củ cải xanh, lúa mạch, lúa mì và gạo nâu.

7. Hạnh nhân

Điều trị loét dạ dày của bạn bằng cách ăn nhẹ thêm một số ít hạnh nhân. Hạnh nhân rất giàu vitamin B, protein và canxi có thể làm giảm triệu chứng loét và hỗ trợ trong quá trình phục hồi. Các loại thực phẩm khác có chứa vitamin B bao gồm các loại đậu, ngũ cốc nguyên hạt, cải bó xôi, cải xoăn.

TS.BS. Lê Thanh Hải

(theo Live Strong)

Ung thư túi mật: Phát hiện sớm để điều trị triệt để

Nguyên nhân gây ung thư túi mật

Ung thư túi mật là tình trạng hiếm gặp nhưng đặc biệt nguy hiểm nếu phát hiện ở giai đoạn muộn. Một số yếu tố có khả năng làm tăng nguy cơ mắc ung thư túi mật: Sỏi mật và viêm túi mật, người có tiền sử gia đình (bố mẹ, anh chị hoặc con cái) mắc ung thư túi mật; những người mắc vi khuẩn thương hàn (Salmonella); tuổi tác và giới tính (thường gặp ở người già và phụ nữ).

Một số nguyên nhân khác như béo phì, hút thuốc lá và tiếp xúc với hóa chất công nghiệp chứa nitrosamine... cũng có khả năng làm tăng nguy cơ phát triển ung thư túi mật.

Dấu hiệu nhận biết

Ung thư túi mật thường không gây ra triệu chứng cho đến khi bệnh phát triển vào giai đoạn cuối hoặc có thể được phát hiện tình cờ trong mảnh sinh thiết túi mật do viêm và sỏi.

Một số dấu hiệu có thể xuất hiện sớm hơn: Đau bụng, nôn hoặc buồn nôn, vàng da, vàng mắt, u cục ở bụng..

Các triệu chứng khác ít gặp: Ăn kém ngon miệng, giảm cân, sốt, ngứa da, nước tiểu đậm màu, phân có màu nhạt hay chứa nhiều dầu mỡ.

Ung thư túi mật

Chẩn đoán như thế nào?

Để chẩn đoán chính xác ung thư mật, trước hết phải khám sàng lọc các yếu tố liên quan đến gia đình. Sau đó, thăm khám lâm sàng: Kiểm tra vùng bụng để xác định những bất thường nếu có như u cục, đau hoặc tích tụ dịch. Da và mắt sẽ được kiểm tra xem có màu vàng bất thường không. Các hạch bạch huyết cũng được khám để tìm khối u có thể xuất hiện nếu ung thư túi mật đã lây lan đến các hạch này.

Ngoài ra, cần làm một số xét nghiệm: Siêu âm, CT scanner bụng (siêu âm và CT scanner còn giúp hướng dẫn chọc kim sinh thiết khối u giúp chẩn đoán tế bào học), xét nghiệm máu, xét nghiệm hình ảnh, nội soi mật tụy ngược dòng (ERCP).

Cần lưu ý, một số tổn thương túi mật có thể nhầm với ung thư túi mật như adenome túi mật, u mỡ, ứ đọng trong túi mật chất dạng cholesterol, polyp túi mật. Trong trường hợp ung thư túi mật lan vào đường mật chính thì cần phân biệt với ung thư đường mật và ung thư đầu tụy. Để tránh nhầm lẫn, cần làm các xét nghiệm như siêu âm, CT scanner, chụp đường mật có cản quang hoặc nội soi ổ bụng.

Có điều trị được không?

Các phương pháp điều trị bao gồm:

Phẫu thuật: Nếu ung thư mới phát triển ở giai đoạn đầu, phẫu thuật cắt bỏ túi mật có thể được thực hiện nhằm loại bỏ hoàn toàn khối u. Nếu ung thư đã lan rộng, các phẫu thuật giảm nhẹ có thể được xem xét để làm giảm triệu chứng và kéo dài cuộc sống người bệnh như: Đặt stent đường mật, phẫu thuật bắc cầu (bypass mật).

Xạ trị: Được dùng để hỗ trợ cho biện pháp phẫu thuật. Nếu kích thước khối u quá lớn hoặc nó nằm ở vị trí không thuận lợi thì xạ trị sẽ giúp làm nhỏ khối u trước khi tiến hành phẫu thuật. Ngược lại, nếu sau phẫu thuật, tế bào ung thư vẫn có khả năng còn sót lại thì xạ trị sẽ được sử dụng để tiêu diệt chúng, nhằm ngăn ngừa ung thư tái phát.

Hóa trị: Uống hoặc tiêm truyền thuốc, thường kết hợp cùng xạ trị sau phẫu thuật để hạn chế ung thư tái phát. Phương pháp này giúp làm giảm triệu chứng và kéo dài sự sống cho người bệnh.

Liệu pháp giảm nhẹ: Sử dụng thuốc giảm đau mạnh như morphine.

BS. Phương Thủy

Cách hạn chế khô mũi

Tôi bị khô mũi nhất là khi chuyển thời tiết, hay đi đường xa làm cánh mũi đau, khó chịu. Xin hỏi quý báo, điều trị như thế nào?

Huỳnh Văn Rô (Bình Định)

Khô mũi là hiện tượng thường xuyên xảy ra với nhiều người sinh sống ở vùng có khí hậu nhiệt đới. Đây là vùng có khí hậu tương đối khắc nghiệt, lúc quá nóng, lúc quá lạnh. Cho nên, niêm mạc hệ hô hấp kém thích nghi cũng là điều không quá khó hiểu.

Các lý do thường gặp khiến bạn khô mũi là: quá thường xuyên sử dụng thuốc nhỏ mũi trong một thời gian dài trước đó; do bạn hay ngồi trong phòng điều hòa, hay viêm niêm mạc mũi mạn tính, viêm họng mạn tính cũng gây ra triệu chứng này...

Để điều trị chứng khô mũi: có thể dùng thuốc xịt mũi dạng nước muối sinh lý, không có hóa chất co mạch, xịt một ngày 3 lần, sáng trước khi đi làm, trưa sau khi nghỉ trưa, tối trước khi đi ngủ. Bạn hạn chế hạ quá thấp nhiệt độ điều hòa, nếu có thể nên đổi vị trí cho đồng nghiệp tránh hơi gió quạt hoặc hơi điều hòa thổi trực tiếp vào mặt. Đêm đến, hạn chế nằm quạt điện thổi thốc vào mặt và mũi. Khi đi đường xa, bạn cần thiết phải đeo khẩu trang dù trời nắng hay trời rét. Như vậy, tình trạng khô mũi của bạn sẽ được cải thiện rất nhiều.

BS. Cao Hồng Đăng

Dấu hiệu bệnh đại tràng

Phạm Thị Liên (Phamlien9333@yahoo.com)

Bình thường người lớn đi đại tiện ngày 1 lần, phân thành khuôn mềm và không lỏng không táo. Nếu đi ngày 2-3 lần phân sống, mót rặn là không bình thường, đó là những dấu hiệu của các bệnh lý đường tiêu hóa như: hội chứng ruột kích thích, hay còn gọi là bệnh đại tràng chức năng (bệnh đại tràng cơ năng).

Đây là bệnh không có tổn thương tại ruột, thường do thay đổi thói quen ăn uống, sau ăn đồ lạ, sau dùng một số thuốc bệnh nhân đi ngoài phân không thành khuôn, có thể nát hoặc sền sệt, hoặc táo bón; rối loạn vi khuẩn đường ruột: mất cân bằng hệ vi khuẩn đường ruột dẫn đến giảm hấp thu, tăng nhu động ruột gây đi ngoài nhiều lần, phân lỏng, nát hoặc sống phân; viêm đại tràng mạn tính: số lần đi ngoài hơn 1 lần/ngày, thường vào lúc sáng sớm hoặc sau ăn đồ sống lạnh, sau dùng các chất kích thích. Tính chất phân thay đổi như lỏng, sền sệt, không thành khuôn, thậm chí phân táo, hoặc lúc đầu táo sau phân nát, phân sống. Có thể đau bụng, trướng hơi, đi ngoài không hết lại muốn đi tiếp,...

Trường hợp đặc biệt, rối loạn đại tiện kèm theo các triệu chứng như sốt, nôn, đi ngoài ra máu... có thể là biểu hiện của các bệnh cấp tính như: tiêu chảy cấp, bệnh lỵ, trĩ, xuất huyết dạ dày, polyp đại tràng, ung thư đại tràng. Trường hợp này, người bệnh cần phải đến các cơ sở y tế để theo dõi và điều trị phù hợp. Nói chung, một khi đã có thay đổi về đại tiện sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe, nếu phát hiện muộn hoặc ở giai đoạn mạn tính dẫn đến quá trình điều trị khó khăn và lâu dài. Vì vậy, bạn nên sớm đi khám tìm nguyên nhân, từ đó bác sĩ sẽ kê đơn điều trị hiệu quả.

BS. Trần Quang Nhật

Sỏi thận có thể gây nhiều biến chứng nguy hiểm

Độ tuổi mắc bệnh thường từ 20 - 50 tuổi, ở nữ thì trẻ hơn từ 20 - 40 tuổi. nếu không chữa trị kịp thời, bệnh không chỉ gây đau đớn mà còn gây nhiều biến chứng rất nguy hiểm.

Hình thành sỏi và những nguy cơ do sỏi thận gây ra

Phần lớn các trường hợp sỏi thận hình thành do lượng nước quá ít (từ việc mất nước do uống ít nước hoặc tập thể thao quá sức), sự thừa khoáng tinh thể trong nước tiểu. Các khoáng chất như: canxi, oxalate, axít uric, natri, cystine hay phốtpho kết thành một khối rắn và đó chính là sỏi thận. Sỏi thận cũng có thể ra ngoài qua đường tiểu, nhưng cũng có thể ở trong thận, bàng quang hay niệu đạo. Sỏi thận là một dạng của sỏi niệu. Sỏi niệu thường xuất hiện ở nơi có dòng nước tiểu yếu hoặc đường tiểu quá nhỏ, uốn khúc, bị hẹp hay tắc nghẽn, do đó những vị trí có sỏi thường là thận, niệu quản chậu hoặc sát bàng quang, cổ bàng quang, niệu đạo, lỗ sáo. Sự di chuyển của sỏi, nhất là những sỏi có gai nhọn sẽ cọ xát vào đường niệu gây ra những cơn đau lưng, đái ra máu nếu sỏi ở thận, niệu quản. Còn sỏi tại bàng quang, niệu đạo sẽ gây đái buốt, đái rắt, đái khó. Nếu bị kẹt trong cuống đài thận, sỏi sẽ chèn ép làm bế tắc cuống đài thận nên đài thận giãn nở, lâu dần thận sẽ giãn mỏng như một túi nước. Khi các đài thận bị căng trướng nước tiểu, sẽ tạo ra áp lực cao tác động vào thần kinh thận và vỏ thận gây ra cơn đau quặn thận.

Sỏi thận có thể gây nhiều biến chứng nguy hiểm

Khi sỏi cọ xát vào đường niệu thì nguy cơ niêm mạc bị phù nề, viêm, là điều kiện tốt cho vi khuẩn xâm nhập gây viêm nhiễm đường tiểu. Người bệnh sẽ thấy đau lưng, đái buốt, đái rắt, đái đục. Nếu nhiễm khuẩn nặng sẽ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng như suy thận.

Nếu thận mủ toàn diện có thể phải cắt bỏ thận. Bế tắc đường tiểu làm tồn đọng nước tiểu gây viêm nhiễm lâu ngày sẽ dẫn đến xơ hóa thành đường tiểu kể cả đài thận. Hậu quả của xơ hóa sẽ dẫn đến giảm chức năng co bóp đường tiểu, chít hẹp làm bế tắc đường tiểu, tồn đọng nước tiểu.

Viêm nhiễm nặng ở đường tiểu còn làm hoại tử đường tiểu, xuất hiện các lỗ rò ở bàng quang, niệu quản. Đã có những trường hợp vỡ thận và vỡ bàng quang do sỏi. Sự hiện diện lâu ngày của sỏi hai bên niệu quản hay sỏi thận một bên còn bên kia sỏi niệu còn dẫn đến hiện tượng vô niệu (không có nước tiểu). Chức năng thận sẽ bị giảm nếu có sỏi ở hai bên thận, nhất là khi có sự kết hợp của viêm nhiễm gây ra suy thận.

Điều trị

Tùy theo kích thước, vị trí và biến chứng của sỏi gây ra mà có các chỉ định can thiệp lấy sỏi khác nhau. Chính vì những biến chứng nguy hiểm mà sỏi thận gây ra nên có những trường hợp cần can thiệp cấp cứu để lấy sỏi ngay, có trường hợp có thể trì hoãn lấy sỏi nghĩa là can thiệp lấy sỏi chủ động theo lịch như mổ lấy sỏi hoặc tán sỏi. Có trường hợp không cần can thiệp gì đối với sỏi nhỏ không gây các biến chứng đau nhiều, đái ra máu hoặc gây biến chứng viêm nhiễm ở thận.

Về điều trị sỏi thận, cần uống nhiều nước, đảm bảo lượng nước tiểu khoảng trên 2,5 lít/ngày; điều trị các đợt nhiễm khuẩn, viêm nhiễm ở thận; điều trị các biến chứng hay các yếu tố thuận lợi dễ hình thành sỏi. Khi biết được nguyên nhân hay thành phần của sỏi thì phải điều trị theo nguyên nhân. Ngày nay có nhiều phương pháp can thiệp lấy sỏi như: mổ lấy sỏi, tán sỏi ngoài cơ thể và nội soi lấy sỏi, nội soi tán sỏi qua da qua đường...

Sỏi thận có thể gây nhiều biến chứng nguy hiểm

Cần phải làm gì để đề phòng?

Cách dự phòng rẻ nhất và hữu hiệu nhất là nên uống nhiều nước, ít nhất là 2 lít/ngày. Loại sỏi thận hay gặp nhất là sỏi canxi, nên câu hỏi đặt ra là có nên dùng canxi hay không? Câu trả lời là không cấm tuyệt đối nhưng nên dùng ở mức độ vừa phải. Vì dù nồng độ canxi trong nước tiểu cao nhưng nó cũng ít khi kết sỏi do có một số yếu tố ức chế kết tinh canxi thành sỏi.

Một điểm đáng chú ý nữa là, người ta nghiên cứu thấy những người uống vitamin C liều cao có nguy cơ bị sỏi thận cao gấp nhiều lần so với người khác. Lý do là vì dùng nhiều vitamin C thì thải ra lượng lớn oxalat trong nước tiểu và oxalat canxi kết tinh thành sỏi. Do đó, nên dùng vitamin C theo chỉ dẫn của bác sĩ, không được dùng tùy tiện, không nên uống nhiều và dùng liều cao dài ngày. Người mắc bệnh sỏi thận nếu không điều trị kịp thời có thể có những biến chứng nguy hiểm, thầm lặng vì viên sỏi sẽ to lên và cản trở đường bài tiết nước tiểu, làm cho chức năng thận hư hại dần. Do vậy, khi có những triệu chứng như trên thì nên đi khám ngay.

Vì hơn một nửa số người đã từng bị sỏi thận sẽ tái phát, nên cách tốt nhất là thay đổi cách sống, đặc biệt là khẩu phần ăn và thói quen tập thể dục. Ngoài ra, nếu đã bị sỏi canxi, có thể cần phải giảm lượng thức ăn chứa nhiều oxalate, canxi như các loại quả hạnh nhân, sôcôla, chè, rau chân vịt, các loại quả mọng như dâu tây. Ăn kiêng với chế độ ăn ít chất đạm cũng làm giảm nguy cơ hình thành sỏi thận.

Triệu chứng của sỏi thận rất đa dạng nhưng phổ biến nhất là đau thắt lưng âm ỉ và thường nặng lên do một số yếu tố, ví dụ như sỏi di chuyển gây nên cơn đau quặn thận. Cơn đau quặn thận này có hai dạng: một dạng điển hình và một dạng không điển hình. Nếu dạng điển hình thì đau xuất phát từ vùng hông tức vùng thắt lưng và lan về phía dưới cơ quan sinh dục, thậm chí lan tới mặt trong của đùi và kèm theo có thể đi tiểu ra máu hoặc không. Những triệu chứng không điển hình là đau có thể lan ra vùng thượng vị và có một số người nhầm với bệnh dạ dày nên chẩn đoán nhầm nếu không khám lâm sàng để xác định.

BS. DƯƠNG ĐÌNH HANH

Làm gì để giảm chứng tê chân tay?

Lò Thị An (Yên Bái)

Tê chân tay là hiện tượng khá phổ biến, từ những dạng tê thông thường, nhất thời đến tình trạng nghiêm trọng kèm theo cảm giác đau buốt, khó chịu.

Tê chân, tay chủ yếu là do các nguyên nhân: Đứng lâu không thay đổi tư thế; Thiếu máu cung cấp cho vùng bị tê do mảng bám của chứng xơ vữa động mạch ngăn cản; Mắc hội chứng ống cổ tay, liệt dây thần kinh trụ, dây thần kinh xương mác; Bệnh rối loạn thận, bệnh gan, bệnh về máu, rối loạn các cơ quan mô liên kết, viêm nhiễm mạn tính, mất cân bằng hormon, ung thư hay các u lành chèn lên dây thần kinh; Thiếu vitamin E, B1, B6, B12... Nghiện rượu và mắc một số bệnh như tiểu đường, bệnh luput hay thấp khớp…

Việc đầu tiên là bạn cần đến bác sĩ chuyên khoa xương khớp để tìm hiểu nguyên nhân và có cách khắc phục cụ thể. Ngoài ra, bạn cũng có thể giảm tình trạng tê tay bằng một số phương pháp như: Ngâm tay trong nước ấm có pha muối cho mạch máu nở ra sẽ đỡ tê; Nắm bàn tay lại xoè mạnh thẳng bàn tay và cánh tay ra. Bên cạnh đó, bạn nên duy trì lối sống lành mạnh, giữ cân nặng ở mức vừa phải, tránh phơi nhiễm độc, có chế độ ăn uống cân bằng, tránh hoặc hạn chế uống nhiều rượu và bỏ thuốc lá.

BS. Như Lan

Phòng tai biến do tăng huyết áp

Xin hỏi bác sĩ bệnh của mẹ tôi có nguy hiểm không? Cách phòng ngừa tai biến ở người tăng huyết áp thế nào?

Nguyễn Thị Hanh (nguyenhanh@gmail.com)

Bệnh tăng huyết áp (THA) nếu không được điều trị thích hợp thì về lâu dài, động mạch bị áp lực căng kéo dài sẽ tổn thương và dẫn đến biến chứng. Biến chứng của THA chủ yếu nhằm vào một số cơ quan trọng yếu như não, tim, thận và dễ gây tai biến... Tai biến mạch não có thể ở hai dạng chính: vỡ mạch não (hay xuất huyết não/màng não) và lấp mạch (tắc mạch não), gây nhồi máu não... Trường hợp mẹ bạn bị tổn thương ở tiểu não có thể do hậu quả từ THA gây xuất huyết tiểu não, nhưng cũng có thể do nguyên nhân khác như teo tiểu não... Để phòng chống tai biến ở người bệnh THA, một nguyên tắc quan trọng là kiểm soát tốt huyết áp. Khi đã có chỉ định dùng thuốc huyết áp thì phải uống suốt đời. Điều nên nhớ là người bệnh phải định kỳ khám và dùng thuốc đúng chỉ dẫn vì thuốc huyết áp cũng có thể kháng thuốc và cần được điều chỉnh liều hoặc thay thuốc nếu huyết áp không được khống chế ở mức mục tiêu (dưới 140/90mmHg). Ngoài ra, cần thực hiện chế độ ăn hợp lý và nên ăn nhạt hơn bình thường, tập thể dục thường xuyên vừa sức cũng giúp hạ huyết áp.

BS. Vũ Ngọc Anh

Trẻ nhỏ sốt xuất huyết có nguy hiểm?

Sốt xuất huyết có phải là bệnh truyền nhiễm không? Bệnh lây qua những đường nào? Xin bác sĩ cho biết nguyên nhân và cách phòng bệnh.

Hoàng Thi Lụa (Hòa Bình)

Sốt xuất huyết là một bệnh truyền nhiễm cấp tính do virut có tên Dengue gây ra. Bệnh do loại muỗi vằn hút máu truyền virut từ người bệnh sang người lành. Sốt xuất huyếtxảy ra quanh năm, nhưng đặc biệt xuất hiện nhiều vào mùa mưa, có khả năng gây thành dịch, đe dọa tính mạng con người. Bệnh có thể trở nặng bất ngờ và hiện chưa có thuốc điều trị đặc hiệu cũng như thuốc phòng ngừa.

Để tránh bị sốt xuất huyết, nên rửa tay xà phòng, dọn quang môi trường, nước đọng không để muỗi làm tổ, đậy kín các tum nước không cho muỗi đẻ trứng

Để tránh bị sốt xuất huyết, nên rửa tay xà phòng, dọn quang môi trường, nước đọng không để muỗi làm tổ, đậy kín các tum nước không cho muỗi đẻ trứng

Trẻ em dễ bị sốt xuất huyết nhất, đặc biệt là lứa tuổi 3 - 8 tuổi. Các dấu hiệu sốt xuất huyết là: sốt cao 39 - 40oC đột ngột, liên tục trong 3 - 4 ngày; xuất huyết (chảy máu) dưới nhiều dạng: chảy máu dưới da, chảy máu cam, chảy máu chân răng, nôn hoặc đi ngoài ra máu; đau bụng. Sốc là dấu hiệu nặng thường xuất hiện từ ngày thứ 3 - 6 của bệnh. Các dấu hiệu sốc là mệt mỏi li bì hoặc vật vã, tay chân lạnh, tiểu ít, có thể kèm theo nôn hoặc đi ngoài ra máu. Phải đi khám bệnh ngay khi thấy những dấu hiệu nghi ngờ bệnh tiến triển nặng.

Để phòng bệnh sốt xuất huyết, nên mặc quần áo dài tay, ngủ trong màn; đậy kín các lu, vại, bể chứa nước để không tạo nơi cho muỗi đẻ, hàng tuần cọ rửa bằng bàn chải; thả cá diệt bọ gậy; dọn dẹp nhà cửa ngăn nắp, sạch thoáng, loại bỏ các vật chứa nước đọng; dùng thuốc diệt muỗi.

ThS. Thanh Lâm

Nhược cơ có nguy hiểm?

Cháu đọc báo thấy triệu chứng của cháu giống như bị nhược cơ. Xin hỏi nhược cơ có nguy hiểm? Làm thế nào để nhận biết?

Nguyễn Hồng Nga(Quảng Bình)

Nhược cơ là một loại bệnh thần kinh cơ, liên quan nhiều tới cơ chế tự miễn. Biểu hiện điển hình là bệnh nhân thấy mỏi mệt cơ tăng dần theo thời gian; trương lực một số cơ bị giảm.

Bệnh nhược cơ gồm 2 thể chính: Nhược cơ cấp: Là thể bệnh cấp cứu, thường gặp ở thai phụ có tiền sử chữa nhược cơ hoặc người có u ác tính ở tuyến ức. Ở thể này, các cơn mỏi cơ (nhất là cơ hô hấp) xuất hiện gần như liền nhau, gây khó thở cấp, ăn nghẹn, uống sặc; Nhược cơ thông thường: Thường gặp ở nữ, ở trẻ em quãng 10 tuổi và lứa tuổi 20-40. Biểu hiện ban đầu là chứng mỏi mệt cơ theo thời gian lao động và sinh hoạt hằng ngày. Người bệnh có thể chỉ bị sụp mi mắt (1 hoặc 2 bên) hay nhai khó, nuốt khó, mỏi mệt tay chân...

Bệnh nhược cơ có thể được xác định bằng nghiệm pháp zoly dương tính (cho bệnh nhân tự nhắm mở mắt 15 lần rồi mở mắt nhìn; bệnh nhân nhược cơ sẽ không mở được, mi mắt sa xuống) hoặc prostigmin dương tính. Tuy nhiên, để chẩn đoán chính xác bệnh, bạn cần phải đến các bệnh viện để được làm các xét nghiệm về miễn dịch, phản ứng điện - điện cơ, Xquang tuyến ức… cụ thể để được điều trị kịp thời.

BS. Hoàng Lan

Nằm ngủ nghiêng về bên phải gây tổn hại sức khỏe

Hầu hết các chuyên gia khuyên bạn nên nằm ngủ với tư thế nằm ngửa và thẳng lưng. Có một số lý do để khuyên bạn không nên nằm ngủ nghiêng về bên phải, nếu bạn hay có thói quen nằm nghiêng về phía bên phải khi ngủ thì đây là lúc bạn nên nhận định lại:

Đối với phụ nữ có thai

Trong khi có một số người nói : không, không..., vì có những lúc không thể kiểm soát được tư thế lúc ngủ, nhưng các bác sỉ mong muốn các bà mẹ đang mang thai tránh nằm nghiêng về bên phải hoàn toàn có lý do chính đáng như sau :

Làm giảm tuần hoàn máu đến bào thai:

Nằm nghiêng bên trái với gối ôm là tư thế nằm ngủ tốt dành cho bà bầu

Các chuyên gia chỉ ra rằng nằm nghiêng bên phải sẽ không tốt cho nhau thai, điều này đóng vai trò rất lớn cho việc đảm bảo sức khỏe của bé; Làm hạn chế đưa dưỡng chất đến nuôi bào thai;

Vì phụ nữ mang thai có cân nặng hơn lúc bình thường, nên nếu nằm nghiêng về bên phải lâu ngày sẽ tạo áp lực đè lên GAN, gây bất lợi cho sức khỏe;

Hậu quả đáng sợ nhất là nằm nghiêng về bên phải nhiều sẽ làm tăng nguy cơ sinh non, hoặc thai nhi có thể bị chết yểu hay chết ngay sau khi sinh.

Đối với sức khỏe cộng đồng

Ngay cả đối với những người không phải là phụ nữ mang thai thì cũng nên tránh nằm ngủ nghiêng về bên phải, vị trí ngủ này mang đến những điều bất lợi như sau:

Hầu hết các thai phụ có khuynh hướng bị nóng rát vùng thượng vị. Tuy nhiên, mặc dù không phải là phụ nữ mang thai như họ, bạn vẫn có thể bị mắc triệu chứng này, cộng thêm nếu bạn nằm nghiêng về bên phải thì vấn đề này trở nên tệ hại hơn;

Bạn có thể sẽ bị tê cứng nếu chỉ nằm nghiêng hẳn một bên dù trái hay phải, vì bạn dồn sức nặng lên một bên cánh tay làm cho máu huyết không lưu thông. Bạn cũng có thể làm nguy hại đến thần kinh vì nằm như vậy đầu sẽ nghiêng về một bên, máu không lưu thông đều đến các mô làm bạn tê, giật mình thức giấc. Nếu may mắn, bạn là người dễ ngủ thì có thể sẽ tiếp tục ngủ lại. Nhưng một số người thì khó dỗ lại giấc ngủ, điều này làm gián đoạn giấc ngủ, tệ hơn còn có thể dẫn đến mất ngủ, mệt mỏi và suy nhược.

Khi bị hội chứng trào ngược dạ dày thực quản, ngủ nghiêng bên phải sẽ làm bệnh nặng hơn

Vì hội chứng GERD (trào ngược thực quản) gây tổn hại cho tế bào thực quản, khi nằm nghiêng về bên phải sẽ tăng nguy cơ GERD... có thể dẫn đến ung thư thực quản. Chứng trào ngược acid dạ dày xảy ra khá phổ biến ở nhiều người. Hiện tượng này xảy ra khi acid trong dạ dày bị đẩy trào lên thực quản, gây ợ nóng và khó chịu. Khi gặp tình trạng này, các chuyên gia sức khỏe khuyên mọi người nên nằm ngủ trong tư thế nghiêng bên trái hoặc gối cao đầu lên thành giường. (Tại bệnh viện Graduate, Philadelphia, Mĩ, các bác sĩ đã nghiên cứu và phát hiện nằm ngủ nghiêng về phía bên phải thường xuyên có thể kích thích mở rộng van nối dạ dày với thực quản, tạo điều kiện cho axit trào ngược lên thực quản nhiều hơn so với các tư thế ngủ nghiêng bên trái hoặc các tư thế nằm khác. Vì vậy tư thế nằm nghiêng bên phải bị coi là bất lợi cho sức khỏe đối với những ai hay bị trào ngược acid dạ dày).

Gây xuất hiện các nếp nhăn: Nằm nghiêng hoặc úp mặt xuống gối trong thời gian kéo dài có thể gia tăng hình thành nếp nhăn trên da, cổ và cằm. Theo tiến sĩ Dennis wolf, kéo dài thời gian nằm ngủ trong tư thế úp mặt hoặc nghiêng mặt không những tạo ra nếp nhăn mà còn gây ra áp lực đè lên các nếp gấp da trong khi ngủ. Những nếp gấp này thường tập trung ở phần chân mũi cạnh miệng và trên gò má dưới mắt. Để hạn chế xuất hiện nếp nhăn các chuyên gia khuyên nên sử dụng gối lụa mềm k gây hại da mặt. Tuy nhiên cách tốt nhất là tránh nằm úp mặt xuống gối hoặc để mặt nằm đè lên tay khi ngủ.

Tư thế úp thìa: có tác dụng giảm stress, song có thể làm tăng nguy cơ đau ở phần vai và cổ. Nghiên cứu của bác sĩ James Coan chuyên gia thần kinh của Mĩ cho biết: khi hai người ngủ, tư thế này có thể giúp tăng cường sợi dây tình cảm với nhau, song thỉnh thoảng cần phải thay đổi tư thế để tránh gây đau vai và cơ do chịu áp lực từ sức nặng của cơ thể đè lên vai.

Việc ngủ nghiêng về bên phải không hoàn toàn có hại vì nó có thể làm nhịp tim và huyết áp của bạn ổn hơn, khỏe hơn nhưng với điều kiện là bạn không có thai...

Vậy tư thế nằm ngửa thì sao? ngủ trong tư thế nằm thẳng và ngửa mặt được xem là tư thế hợp lí với nhiều người và tránh được các nếp nhăn trên mặt , tuy nhiên lại bất lợi cho bệnh nhân hen, những người bị bệnh tim mạch và những người mắc chứng khó thở hoặc ngủ ngáy. Khi nằm ở tư thế ngửa thẳng người trên giường ngủ các cơ trong miệng bị sức ép bởi sức ép không khí ,có thể gây hẹp ống thở dẫn tới ngủ ngày. Mặt khác nằm ngửa thẳng lưng làm giảm đáng kể lượng oxy lưu thông trong mạch máu,dễ gây ngừng thở ở người mắc chứng khó thở. Nếu bạn là người khỏe mạnh k mắc một trong những bệnh nêu trên và là người yêu thích tư thế ngủ này thì hãy chọn cho mình loại gối cứng hơn một chút vì nó sẽ giúp nâng đỡ phần đầu xương đốt sống cổ và hạ thấp phần lưng, tạo cảm giác dễ thở khi ngủ.

Mỗi tư thế nằm ngủ đều có những điểm lợi và hại nhất định, tuỳ thuộc vào tình trạng sức khoẻ và bệnh tật của bạn. Tuy nhiên, xét về tổng thể thì tư thế ngủ nằm ngửa thẳng lưng, thả lỏng chân tay một cách thoải mái với một chiếc gối có độ cao và độ cứng vừa phải vẫn là tư thế tốt nhất cho bạn.

DS.Bùi Ngọc Lan Hương

(theo Health digest)

Chân hay tê mỏi, sợi gân nhiều là bệnh gì?

Ngọc Thắng(Hải Phòng)

Có thể bạn bị suy tĩnh mạch. Đây là bệnh rất hay gặp ở những nhân viên văn phòng- những người phải đứng nhiều hay ngồi nhiều. Về mặt bệnh lý, các triệu chứng diễn ra âm thầm, nhiều người mắc nhưng lại không biết đến. Người bệnh suy tĩnh mạch ở giai đoạn đầu thường có các dấu hiệu mờ nhạt, chính bệnh nhân cũng không biết. Người bệnh chỉ cảm giác đau chân, nặng chân nhưng đa số bệnh nhân không nghĩ rằng bị suy tĩnh mạch mà chủ quan vì lầm tưởng các cảm giác đau chân, sưng phù to hơn bình thường là do đứng hoặc ngồi lâu.

Bệnh tiến triển qua từng giai đoạn, nhẹ nhất là hiện tượng đau, nặng chân, mỏi chân, phù nhẹ khi đứng lâu, ngồi nhiều, vọp bẻ, chuột rút vào buổi tối. Nặng hơn, vùng cẳng chân xuất hiện chàm da, thay đổi màu sắc da gây cảm giác nặng, đau nhức chân. Ở giai đoạn cuối cùng, bệnh gây viêm sưng, rất khó đi lại, đôi khi còn dẫn đến tình trạng loét chân, cắt cụt chi. Chính vì vậy, để điều trị hiệu quả và ngăn không cho bệnh bị biến chứng nặng, ngay khi có những dấu hiệu đầu tiên của bệnh (như đau, sưng, nặng chân vào cuối ngày hay đứng lâu; chuột rút ban đêm), hãy đi gặp bác sĩ để được tư vấn và điều trị kịp thời.

Đối với trường hợp của bạn, để chẩn đoán chính xác và có phương pháp điều trị thích hợp, bạn cần đến bệnh viện để biết được chính xác mức độ, tình trạng bệnh nhằm có hướng chữa trị thích hợp.

BS. Nguyễn Hoài

Những thói quen tưởng vô hại nhưng lại nguy hiểm ngang với hút thuốc

1. Không dùng kem chống nắng

Mặc dù ung thư da thường có thể chữa trị nếu được phát hiện sớm nhưng nhiều người vẫn chết vì u hắc tố mỗi năm. Cách tốt nhất để phòng ngừa ung thưda là bôi kem chống nắng mọi lúc. Bạn cần bôi kem lên bất cứ vùng da nào tiếp xúc với ánh mặt trời buổi sáng và bôi lại trong ngày. Đó là thói quen sẽ mang lại lợi ích cho bạn nếu bạn bắt đầu thực hiện từ khi còn trẻ.

2. Không tập luyện

Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng không tập luyện là nguyên nhân của 1/10 số ca tử vong sớm, tương đương với con số tử vong do hút thuốc.

3. Sử dụng thuốc lắc

Thuốc lắc là loại ma túy đường phố khiến người sử dụng bị kích thích thần kinh trung ương, tạo ảo giác trong nhiều giờ liền. Ảo giác đó làm cho người uống thuốc lắc có trạng thái sung mãn, tự tin, nhiệt độ cơ thể tăng gây cảm giác nóng bỏng, thích thực hiện những hành vi có cảm xúc mạnh, đặc biệt khi đi kèm với âm thanh có cường độ lớn. Thành phần của thuốc này là chất GHB có thể gây rất nhiều nguy cơ cho sức khỏe cũng như kiểm soát hành vi. Hãy loại bỏ bất cứ loại ma túy nào vì sức khỏe và cuộc sống của bạn.

4. Không kiểm soát cân nặng

Tăng 1-2 kg không đáng lo ngại, nhưng nếu bạn để cân nặng tăng ngoài tầm kiểm soát, nguy cơ tử vong sẽ tăng lên đáng kể. Theo các chuyên gia, những người béo phì trước tuổi 15 tăng gấp 2 lần nguy cơ tử vong so với những người không bị béo phì. Nguy cơ này tiếp tục tăng nếu trọng lượng của bạn quá cao. Luyện tập và chế độ ăn lành mạnh có thể có lợi cho bạn.

5. Xem tivi quá nhiều

Bạn được khuyến cáo không để cho trẻ xem tivi nhiều hơn 2 giờ mỗi ngày. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, ngay cả bạn cũng nên xem hạn chế vì cuộc sống của chính mình. Nghiên cứu cho biết xem tivi hơn 4 giờ mỗi ngày làm tăng nguy cơ đau tim và đột quỵ. Thay vào đó hãy đọc sách hoặc đan len.

6. Sống quá xa nơi làm việc

Sống xa nơi làm việc là không tốt. Những người dành quá nhiều thời gian đi lại sẽ có ít thời gian thực hiện những thói quen lành mạnh như ăn uống đúng cách, tập luyện và ngủ đủ. Bạn có thể bị bắt buộc phải đi làm xa nhưng hãy cố khắc phục bằng những thói quen tốt để có thể sống lâu hơn.

7. Ngủ quá nhiều cũng có hại như thiếu ngủ

Những người ít ngủ dễ bị tăng cân và stress, cả hai tình trạng này đều rút ngắn tuổi thọ của bạn. Nghiên cứu cho biết ngủ quá nhiều làm tăng đáng kể nguy cơ tử vong do đau tim. Lý tưởng là nên ngủ từ 7-8 giờ mỗi đêm. Thường xuyên ngủ nhiều hơn 9 giờ cũng có thể dẫn tới các biến chứng cho sức khỏe.

BS Tuyết Mai

(Univadis)

4 cách đơn giản tránh bệnh do nắng hè

Tránh nắng:

Hạn chế trẻ ra đường thời gian nóng nhất trong ngày (10h - 15h).

Đội nón rộng vành, quần áo mỏng, màu sáng khi ra ngoài trời. Đi tắm biển hoặc ra nắng lâu hơn 15 phút nên bôi kem chống nắng 5 phút trước và bôi lại mỗi 2 giờ.

Tránh thay đổi nhiệt độ đột ngột.

Hạ nhiệt:

Nhắc trẻ uống nước thường xuyên, ngay cả khi không khát: Nước chín, nước tinh khiết, nước khoáng, trà loãng. Tránh uống nhiều nước ngọt, nước có gaz. Chọn nước đá tinh khiết.

Xây dựng thực đơn các món ăn có nhiều nước: canh rau, các món ăn giải nhiệt như sữa chua, chè đậu xanh

Cho trẻ ăn đầy đủ các chất: rau quả, vitamin và chất khoáng.

Chăm sóc da đúng cách: Giữ cho da sạch, mát và khô:

BS.CKII. NGUYỄN THỊ KIM THOA

Cách phòng đột quỵ do nắng nóng

Những người mắc các bệnh mạn tính như tăng huyết áp, đái tháo đường, rối loạn mỡ máu nên áp dụng sớm những biện pháp phòng ngừa nguy cơ đột quỵ. Nên thay đổi lối sống, kiểm soát huyết áp, đường huyết… Vào mùa nóng, nên cẩn trọng nếu đột nhiên cảm thấy hơi đau đầu, choáng váng, tê nửa người... vì những biểu hiện này rất có thể là triệu chứng báo trước khả năng phát sinh đột quỵ. Ngoài ra cần thực hiện tốt những biện pháp phòng bệnh sau:

Uống nhiều nước: Cung cấp đủ nước cho cơ thể để đào thải chất độc, thanh nhiệt cơ thể hỗ trợ cho các bộ phận khác của cơ thể làm việc tốt hơn. Ngoài ra uống nhiều nước cũng giúp bạn có một làn da tươi tắn, khỏe mạnh, căng tràn sức sống.

​Ở người bị đột quỵ, tim thường đập nhanh hoặc loạn nhịp.

Bảo vệ cơ thể: Trước khi đi ra ngoài trời nắng cần trang bị ô, mũ, áo chống nắng, kính râm, khẩu trang… đầy đủ tránh tia cực tím xâm nhập. Nếu đi biển cần sử dụng kem chống nắng giúp bảo vệ làn da khỏi các tác hại của ánh nắng mặt trời cũng như gió biển. Mặc quần áo màu sáng, chất liệu co giãn thoáng mát. Quần áo màu sáng giúp chống nóng tốt hơn màu tối, nên chọn những trang phục đơn giản, nhẹ nhàng, rộng rãi, thấm mồ hôi để cơ thể được thoải mái, dễ chịu hơn.

Vận động hợp lý: Mùa nắng, cơ thể mất nước nhiều vì vậy nên chọn những bài tập thể dục nhẹ nhàng, vừa sức. Nên tập ở những nơi thoáng mát, giàu không khí như công viên, các trung tâm thể dục thể thao. Lưu ý khi tập xong nên nghỉ ngơi cho ráo mồ hôi tránh đi tắm ngay.

Không nên ra ngoài nắng đặc biệt là khoảng thời gian nóng cao điểm từ 11 giờ trưa đến 4 giờ chiều. Vì thời điểm này nắng mạnh nhất, nhiều tia tử ngoại nhất dễ gây say nắng, sốc nhiệt.

Thạc sĩ Vũ Hồng Anh

 




 

 

Những nhận định sai về vắc

Tại Việt Nam, hơn 30 năm qua, hàng trăm triệu liều vắc-xin đã được tiêm chủng miễn phí cho trẻ em và phụ nữ. Tuy nhiên vẫn tồn tại nhiều quan niệm anti vắc-xin (chống lại vắc xin, từ chối cho con cái hoặc bản thân tiêm vắc-xin) càng lớn dần. Hãy xem những quan niệm về vắc-xin đó sai lệch thế nào qua các nghiên cứu khoa học đã được chứng minh.

Vắc-xin gây tự kỷ

Nỗi lo sợ rộng rãi rằng vắc-xin làm tăng nguy cơ mắc chứng tự kỷ bắt nguồn từ một nghiên cứu năm 1997 do Andrew Wakefield, một bác sĩ phẫu thuật người Anh xuất bản. Bài báo được đăng trên tạp chí y khoa The Lancet, cho thấy vắc-xin phối hợp sởi, quai bị, Rubella (MMR) đang gia tăng chứng tự kỷ ở trẻ em Anh. Bài báo này đã bị hủy bỏ hoàn toàn do các lỗi nghiêm trọng về thủ tục và các vi phạm đạo đức. Andrew Wakefield mất giấy phép y tế và giấy đã được rút lại từ The Lancet. Tuy nhiên, giả thuyết của bác sĩ này đã được thực hiện nghiêm túc, và một số nghiên cứu lớn khác đã được tiến hành. Không ai trong số họ tìm thấy một liên kết giữa bất kỳ loại vắc-xin nào và khả năng phát triển chứng tự kỷ. Ngày nay, nguyên nhân thực sự của chứng tự kỷ vẫn là một bí ẩn, nhưng với sự mất uy tín của lý thuyết liên kết tiêm chủng tự kỷ, một số nghiên cứu hiện đã xác định các triệu chứng tự kỷ ở trẻ em trước khi chúng được chủng ngừa MMR. Và thậm chí nhiều nghiên cứu gần đây cũng cung cấp bằng chứng cho thấy chứng tự kỷ phát triển trong tử cung, trước khi sinh con hoặc được chủng ngừa.

Mọi trẻ em đều khác biệt, tuy nhiên hệ miễn dịch của trẻ sẽ tiếp nhận vắc-xin giống hệt nhau.

Mọi trẻ em đều khác biệt, tuy nhiên hệ miễn dịch của trẻ sẽ tiếp nhận vắc-xin giống hệt nhau.

Hệ miễn dịch của trẻ nên được phát triển tự nhiên

Vắc-xin giới thiệu một dạng virut đã bị suy yếu vào cơ thể của bạn để hệ thống của bạn có thể học cách xác định và bảo vệ cơ thể, chống lại loại virut này trong tương lai. Đối với những người trẻ và già, việc tăng cường hệ miễn dịch bằng cách tiêm phòng đặc biệt quan trọng. Cụ thể, trẻ em phải được ngừa các bệnh nhiễm trùng nguy hiểm ở độ tuổi trẻ, bởi vì khi đó hệ miễn dịch của chúng dễ bị tổn thương nhất.

Vắc-xin có thể gây bệnh (do vắc-xin là virut đã bị yếu của một căn bệnh tiêm vào cơ thể)

Vắc-xin có thể gây ra các triệu chứng nhẹ giống như các triệu chứng của bệnh mà nó đang bảo vệ chống lại. Một quan niệm sai lầm phổ biến là các triệu chứng này báo hiệu nhiễm trùng. Trên thực tế, với tỷ lệ nhỏ (ít hơn 1 trong một triệu trường hợp), nơi các triệu chứng xuất hiện, những người nhận vắc-xin đang trải qua phản ứng miễn dịch của cơ thể đối với vắc-xin, chứ không phải bản thân bệnh. Chỉ có một trường hợp được ghi lại trong đó một loại vắc-xin đã được chứng minh là gây bệnh. Đó là Thuốc chủng ngừa bệnh bại liệt (OPV) đã không còn được sử dụng. Kể từ đó, vắc-xin đã được sử dụng an toàn trong nhiều thập kỷ và tuân theo các quy định nghiêm ngặt về Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA).

Mọi trẻ em đều khác biệt, vậy sao chúng lại dùng cùng loại vắc-xin và cùng một lịch?

Con bạn có thể khác các trẻ em bình thường theo nhiều cách, nhưng hệ thống miễn dịch của chúng gần như chắc chắn sẽ tiếp nhận vắc-xin giống hệt nhau.

Theo các nghiên cứu đăng trên tạp chí American Academy và Pediatrics: Lịch tiêm phòng được coi là lịch trình lý tưởng cho trẻ em khỏe mạnh, nhưng có thể có ngoại lệ. Ví dụ, con bạn có thể không nhận được một số loại vắc-xin nếu chúng bị dị ứng với một thành phần trong vắc-xin, hoặc nếu chúng có một hệ thống miễn dịch suy yếu do bệnh tật, một tình trạng mạn tính, hoặc điều trị y tế khác. Đôi khi một mũi tiêm cần phải bị trì hoãn trong một thời gian ngắn và đôi khi không đươc tiêm vào cơ thể. Điều quan trọng cần lưu ý là lịch tiêm chủng được tạo ra để các vắc-xin được cho vào “độ tuổi khi hệ miễn dịch của cơ thể hoạt động tốt nhất” và “nhu cầu bảo vệ trẻ sơ sinh và trẻ em ở độ tuổi sớm nhất có thể”.

Linh Giang

((Theo Publichealth & Scienceaf.com))

Cách sơ cứu và phòng tránh say nắng nhanh chóng đúng chuẩn

Say nắng (hay còn gọi là sốc nhiệt) là hình thái nghiêm trọng nhất của tổn thương do nhiệt và là một cấp cứu y khoa. Sốc nhiệt có thể gây tử vong hoặc gây tổn hại cho não và các cơ quan nội tạng khác trong cơ thể. Sốc nhiệt chủ yếu ảnh hưởng tới những người trên 50 tuổi nhưng nó cũng có thể tác động tới người trẻ khỏe.

Triệu chứng của say nắng

Triệu chứng đặc trưng của sốc nhiệt là nhiệt độ trung tâm của cơ thể cao hơn 40,5 độ C. Thường ngất xỉu có thể là dấu hiệu đầu tiên. Các triệu chứng khác có thể gồm: đau nhói đầu; chóng mặt và choáng váng; không ra mồ hôi mặc dù thời tiết nóng; da đỏ, nóng và khô; yếu cơ hoặc chuột rút; buồn nôn và nôn; nhịp tim/mạch nhanh, tim/mạch có thể đập mạnh hoặc yếu; thở nhanh và thở nông; Thay đổi hành vi như lú lẫn, mất phương hướng hoặc có trạng thái sửng sốt; co giật; hôn mê.

Cách sơ cứu và phòng tránh say nắngKhi nắng nóng cần uống nhiều nước,  mặc quần áo rộng, nhẹ và sáng màu, đội mũ kết hợp với sử dụng kem chống nắng để phòng tránh say nắng.      Ảnh: TM

Sơ cứu ban đầu với người say nắng

Nếu bạn nghi ngờ ai đó bị say nắng, hãy gọi số điện thoại cấp cứu 115 ngay lập tức hoặc đưa bệnh nhân tới bệnh viện. Trong khi đợi y tế đến, đưa bệnh nhân tới nơi có điều hòa hoặc ít nhất là chỗ râm mát và cởi bỏ các quần áo không cần thiết.

Nếu có thể, nên đo nhiệt độ cơ thể của bệnh nhân rồi sơ cứu để hạ nhiệt độ cơ thể xuống còn 38,3-38,8 độ C. Trường hợp không có nhiệt kế, tiến hành sơ cứu ngay bằng các phương pháp làm mát sau:

Quạt và làm ướt da bệnh nhân bằng khăn ướt hoặc vòi nước.

Áp túi nước đá vào nách, bẹn, cổ và lưng bệnh nhân. Do các khu vực này có nhiều mạch máu gần với da nên việc làm lạnh chúng có thể làm giảm được nhiệt độ cơ thể.

Nhúng bệnh nhân vào vòi hoa sen hoặc bồn tắm có nước mát hay bồn tắm nước đá.

Nếu hỗ trợ y tế tới muộn, bạn có thể gọi điện tới các phòng cấp cứu trong bệnh viện để được hướng dẫn thêm.

Chú ý: Một người đã hồi phục sau sốc nhiệt có thể nhạy cảm hơn với nhiệt độ cao trong các tuần sau đó. Vì vậy, tốt nhất, cần tránh thời tiết nóng và tập luyện nặng cho tới khi bác sĩ khẳng định bạn đã an toàn để quay lại các hoạt động bình thường.

Các yếu tố nguy cơ gây say nắng

Sốc nhiệt rất dễ ảnh hưởng tới người cao tuổi sống tại nơi không có điều hòa hoặc nhà không được thông khí tốt. Các nhóm nguy cơ cao khác bao gồm những người không uống đủ nước, có bệnh mạn tính hoặc uống quá nhiều bia rượu.

Sốc nhiệt có liên quan chặt chẽ với chỉ số nhiệt. Chỉ số nhiệt là một đại lượng đo lường bạn cảm thấy nóng như thế nào khi chịu ảnh hưởng từ độ ẩm tương đối kết hợp với nhiệt độ không khí. Độ ẩm không khí trên 60% làm cản trở việc bài tiết mồ hôi, do đó làm cản trở khả năng tự làm mát của cơ thể.

Nếu bạn sinh sống ở khu vực đô thị, bạn có thể đặc biệt dễ bị sốc nhiệt trong đợt nóng kéo dài, đặc biệt nếu chất lượng không khí kém và không có gió. Hiện tượng “hiệu ứng đảo nhiệt” (nhựa đường và nhà kho bằng bê tông bị đốt nóng vào ban ngày và chỉ tỏa dần nhiệt vào ban đêm) làm cho nhiệt độ ban đêm cao hơn.

Các yếu tố nguy cơ khác kết hợp với các tình trạng rối loạn liên quan tới nhiệt bao gồm:

Tuổi: Trẻ sơ sinh, trẻ em dưới 4 tuổi và người lớn trên 65 tuổi dễ bị tổn thương do nhiệt bởi họ thích nghi với nhiệt chậm hơn so với những người khác.

Tình trạng sức khỏe: Các bệnh lý tim, phổi hoặc thận, béo phì, thiếu cân, cao huyết áp, tiểu đường, bệnh tâm thần, bệnh hồng cầu hình liềm, nghiện rượu, bỏng nắng và bất cứ tình trạng nào gây sốt... đều rất dễ bị tổn thương do nhiệt.

Thuốc: Sử dụng các thuốc kháng histamin, thuốc giảm cân, thuốc lợi tiểu, thuốc an thần, các thuốc kích thích, thuốc chống động kinh, thuốc tim mạch và huyết áp và các thuốc điều trị bệnh tâm thần... làm tăng nguy cơ tổn thương do nhiệt. Ma túy cũng liên quan tới việc tăng nguy cơ bị sốc nhiệt.

Tuy nhiên, những người có bệnh đái tháo đường - có nguy cơ cao phải vào cấp cứu, nhập viện và tử vong do các rối loạn liên quan tới nhiệt lại thường đánh giá thấp nguy cơ của họ trong đợt nóng.

Cách phòng tránh say nắng

Khi nhiệt độ ngoài trời cao, bạn tốt nhất là ở trong môi trường điều hòa. Nếu phải đi ra ngoài, bạn có thể dự phòng sốc nhiệt theo các bước sau:

Mặc quần áo rộng, nhẹ và sáng màu, đội một chiếc mũ rộng vành kết hợp với sử dụng kem chống nắng có chỉ số chống nắng trên 30.

Uống nhiều nước để tránh mất nước, ít nhất là khoảng 8 cốc gồm nước lọc, nước trái cây hoặc nước rau... Vì các tình trạng rối loạn liên quan tới nhiệt cũng có thể là hậu quả của mất muối, do vậy, khuyến khích bổ sung đồ uống thể thao giàu chất điện giải trong các đợt nóng.

Thực hiện các biện pháp dự phòng bổ sung khi tập luyện hoặc đi bộ ngoài trời, uống khoảng 710ml nước trước 2 giờ tập luyện và cân nhắc bổ sung 1 cốc (khoảng 240ml) nước hoặc đồ uống thể thao ngay trước khi tập. Trong khi tập, cứ mỗi 20 phút bạn nên uống 1 cốc nước, ngay cả khi không cảm thấy khát.

Thu xếp lại hoặc hủy bỏ các hoạt động ngoài trời. Nếu có thể, thay đổi thời gian ngoài trời của bạn sang một khoảng thời gian mát mẻ hơn trong ngày hoặc vào buổi sáng sớm hay sau khi mặt trời lặn.

Các biện pháp dự phòng sốc nhiệt khác bao gồm:

Theo dõi màu sắc nước tiểu: Nước tiểu sẫm màu hơn là một dấu hiệu mất nước. Hãy đảm bảo uống đủ nước để duy trì nước tiểu có màu trong.

Cách sơ cứu và phòng tránh say nắngCách sơ cứu ban đầu cho người say nắng.

- Đánh giá trọng lượng trước và sau mỗi hoạt động thể lực. Theo dõi trọng lượng nước bị mất có thể giúp bạn xác định cần uống bổ sung bao nhiêu nước để bù lại.

- Tránh chất lỏng có cafein hoặc cồn bởi vì cả hai chất này có thể khiến bạn mất nhiều dịch hơn và làm trầm trọng thêm tình trạng rối loạn liên quan tới nhiệt. Ngoài ra, không uống thuốc muối khi không có chỉ định của bác sĩ. Cách dễ nhất và an toàn nhất để bổ sung muối và các điện giải khác trong đợt nóng là dùng đồ uống thể thao và các loại nước trái cây.

- Đi khám bác sĩ trước khi tăng chế độ uống nước hàng ngày nếu bạn có bệnh gan, thận, tim hoặc động kinh (là những bệnh lý cần hạn chế uống nước) hoặc có vấn đề về tích nước.

- Nếu nhà bạn không có quạt hoặc điều hòa, vào khoảng thời gian nóng nhất trong ngày, nên tới nơi có điều hòa không khí (như đi siêu thị, thậm chí nhà hàng xóm...) hoặc những nơi râm mát... Tại nhà, cần đóng cửa rèm, che chắn cửa hoặc hạ mành... khi nắng nóng và mở cửa sổ vào ban đêm ở hai cạnh của ngôi nhà để tạo sự thông gió.

ThS.BS. Lương Quốc Chính

Trẻ nôn trớ, xử trí thế nào?

Nôn trớ là triệu chứng hay gặp ở trẻ nhỏ. Nôn trớ là hiện tượng thức ăn trong dạ dày bị đẩy lên thực quản rồi trào ra miệng. Nôn trớ có thể lành tính, tự khỏi khi trẻ lớn hơn. Có khi nôn trớ là biểu hiện của những bệnh lý tiêu hóa như trào ngược dạ dày thực quản, có thể là triệu chứng của bệnh lý đường hô hấp hay là bệnh lý toàn thân…

Thế nào là nôn trớ bình thường?

Nôn trớ là hiện tượng phổ biến trong những tuần đầu sau sinh, khi bé vừa ăn xong hay bé vặn người. Bé trớ ra sữa vón cục và điều này có thể làm bé sợ, khóc nhiều hơn. Có nhiều nguyên nhân khiến bé trớ, hay gặp ở trẻ nhỏ do ép trẻ ăn quá nhiều, bú quá no, nằm liền sau khi bú hoặc không dung nạp thức ăn hoặc bắt đầu ăn bổ sung với thức ăn mới lạ, hoặc ăn nhiều quá một loại thức ăn nào đó. Dấu hiệu: nôn trớ thường xuất hiện sớm, số lượng chất nôn ít, chủ yếu là thức ăn. Trẻ vẫn chơi bình thường, không ảnh hưởng đến toàn trạng cơ thể. Do vậy, chỉ cần điều chỉnh cách cho ăn.

Hiện tượng nôn trớ ở tháng tuổi mới sinh này là bình thường hay còn gọi là nôn trớ sinh lý vì dạ dày của bé còn nằm ngang, cơ thắt tâm vị yếu nên bé rất hay nôn trớ, để giảm bớt tình trạng này cần chia nhỏ nhiều bữa ăn trong ngày, mỗi bữa chỉ ăn 30-40ml, có thể 1h lại cho ăn 1 lần.

Một lưu ý là cha mẹ không nên quá căng thẳng về hiện tượng này ở trẻ. Mỗi đứa trẻ đều sẽ nôn trớ ít nhiều trong giai đoạn sau khi chào đời và thường không ảnh hưởng gì tới sức khỏe cũng như sự phát triển của trẻ. Bé vẫn khỏe mạnh và tiếp tục lên cân.Khi bé nôn nên để bé nằm nghiêng hoặc đỡ bé ngồi dậy, đề phòng khi bé nôn, chất nôn sẽ tràn vào khí quản, gây sặc rất nguy hiểm

Khi bé nôn nên để bé nằm nghiêng hoặc đỡ bé ngồi dậy, đề phòng khi bé nôn, chất nôn sẽ tràn vào khí quản, gây sặc rất nguy hiểm

Nôn trớ bệnh lý

Trong những tháng đầu tiên sau sinh, hiện tượng nôn trớ có thể là biểu hiện của một bệnh lý tại đường tiêu hóa như: trào ngược dạ dày thực quản, nhiễm khuẩn đường ruột, ngộ độc thức ăn, bệnh lý ngoại khoa như: lồng ruột, tắc ruột, hẹp môn vị… Bệnh lý toàn thân như: viêm đường hô hấp, viêm màng não… Bé càng lớn mà tình trạng nôn vẫn kéo dài thì đừng do dự, hãy đưa bé tới bác sĩ. Một số dấu hiệu cảnh báo cần đưa bé đi khám bệnh: Bé nôn trớ kèm theo: đau bụng quằn quại, bụng trướng, lơ mơ hay ở trạng thái kích thích, co giật, liên tục nôn trớ hay tiếp tục nôn trớ trên 24 tiếng, xuất hiện máu hay mật (màu xanh) khi nôn trớ...

Trường hợp trẻ nôn trớ kéo dài hoặc nôn do bệnh lý mà trẻ có biểu hiện các triệu chứng như: sốt, đau bụng, lơ mơ, co giật, hay nôn ói liên tục,... có thể do các bệnh nhiễm khuẩn tiêu chảy, viêm mũi họng, viêm phổi, viêm màng não,... gây ra. Khi trẻ nôn đột ngột và kèm theo các triệu chứng khác liên quan của từng bệnh thì cần đưa trẻ đi khám để xử trí kịp thời.

Các trạng thái nôn trớ ở bé cần nghĩ ngay là bệnh lý

Cũng có thể có xuất hiện tia đỏ trong dịch nôn nếu bé nuốt máu từ vết thương nào đó ở miệng hoặc bị chảy máu cam trong vòng 6 tiếng trước đó. Chỉ bất thường khi bé tiếp tục nôn trớ có lẫn máu trong những lần sau với số lượng tăng dần. Riêng với tình trạng nôn có màu xanh (mật xanh) thì cần đưa bé đến bệnh viện ngay. Khi ấy cần giữ lại chút dịch nôn trớ có lẫn máu hay mật xanh để đưa bác sĩ xem.

Nôn trớ không ngừng trong tháng đầu tiên sau sinh, cứ ăn xong là nôn trớ. Đây có thể là do chứng hẹp môn vị, một nguyên nhân hiếm gặp gây nôn trớ mà thường bắt đầu một vài tuần sau khi bé chào đời cho tới tận khi bé 4 tháng tuổi. Môn vị là một cơ vòng nối liền dạ dày với đoạn đầu của ruột non. Nếu cơ vòng này bị dày lên sẽ ngăn cản sự di chuyển các chất trong bộ máy tiêu hóa từ dạ dày xuống ruột. Sữa hoặc các thực phẩm khác bị ứ tắc ở đây sẽ dội lại phía thực quản và gây ra nôn ói.

Xử trí nôn trớ như thế nào?

Lưu ý: tư thế khi bé nôn nên để bé nằm nghiêng hoặc đỡ bé ngồi dậy, đề phòng khi bé nôn, chất nôn sẽ tràn vào khí quản, gây sặc rất nguy hiểm. Khi đã lưu ý tư thế thì nên chờ cho bé bớt nôn trớ, hãy cho uống một lượng nhỏ nước đun sôi để nguội hoặc dung dịch oresol, bé bị mất nước nhiều nên sẽ khát. Lau sạch miệng cho trẻ, thay áo và quàng khăn vào cổ trẻ đề phòng bé nôn trớ tiếp.

Khi bé nôn trớ, cơ thể bé sẽ mất một số lượng chất lỏng nhất định. Vì thế, điều quan trọng là phải bổ sung lại lượng chất lỏng đã mất này để cơ thể bé không bị mất nước, bằng dung dịch oresol, nước đun sôi để nguội hay nước trái cây. Thực tế là rất nhiều bé khi uống oresol hay nước lọc vào càng ói nhiều hơn nữa, có bé cũng không chịu uống nước hoa quả. Khi đó có thể cho bé uống nước đường nhạt, vừa giúp bé bù nước lại giúp con giảm mệt mỏi và nhanh lại sức, các bé sẽ dễ uống hơn và giảm nôn trớ rất nhanh. Nên cho uống bằng muỗng nhỏ hoặc từng ngụm một, với lượng nước vừa phải. Nếu bé tiếp tục trớ thì cần cho uống luân phiên 50ml nước oresol/50ml nước đường sau mỗi nửa giờ. Hoặc có thể chỉ cho bé uống nước đường nếu thấy bé chịu uống hơn. Sau khi cho bé uống loại nước này mà bé không nôn trớ nữa thì cho bé bú mẹ hoặc bú bình, tăng dần số lượng từ 80 - 100ml sau mỗi 3 - 4 giờ. Không cho bé bú quá nhiều cho 1 lần trong thời gian này.

Nếu bé đã ngừng nôn trớ sau 6 giờ thì có thể cho bé ăn uống bình thường nhưng vẫn nên cho ăn ít hơn so với bình thường, chia bữa ăn thành nhiều bữa nhỏ hơn, vẫn cho bé uống nhiều nước. Cho bé ăn các loại thực phẩm dễ tiêu hóa, chọn loại bình thường bé thích ăn và dễ ăn với bé.

Lưu ý: Khi trẻ nôn trớ, mẹ nên xem con có bị sốt hay đi phân lỏng, tiêu chảy, ho, hay sổ mũi, phát ban,... kèm theo không. Nếu có là bé nôn trớ do một bệnh lý nào đó, khiến cơ thể mệt mỏi và gây ra nôn trớ.

Nếu sau khi nôn, trẻ vẫn chơi bình thường thì đó là do cách ăn uống chưa hợp lý ở trẻ, không do bệnh lý, không ảnh hưởng đến tình trạng cơ thể. Lúc này mẹ cần phải điều chỉnh cách cho ăn. Nên nhớ khi bé nôn nhiều tức là bộ phận tiêu hóa đang có vấn đề nên cần nghỉ ngơi, chỉ nên cho bé uống nước để không bị mất nước, đừng ép ăn, không giúp được bé mà còn làm tăng triệu chứng nôn trớ và bé càng quấy khóc nhiều hơn.

Không được tự ý mua cho con dùng loại thuốc chống nôn trớ nào khi chưa cho con đi khám và được bác sĩ kê đơn. Nhất là với các bé dưới 6 tháng tuổi sẽ rất nguy hiểm.

BS. LÊ ANH

Chủng ngừa cho trẻ càng sớm, phản ứng càng êm

Nhiều bậc phụ huynh e ngại trẻ nhỏ quá, chích ngừa không tốt cho hệ miễn dịch, dễ sốc… Tuy nhiên trong buổi nói chuyện chuyên đề “Chủng ngừa ở trẻ em những điều cần biết” ngày 23/6/2018, BS.CKI. Nguyễn Đông Bảo Châu, Phòng Chỉ đạo tuyến (BV. Nhi Đồng 1), cho biết, đầu tiên, vắc xin rất an toàn để sử dụng vì phải trải qua những giai đoạn giám sát, kiểm tra nghiêm ngặt từ khi sản xuất đến khi sử dụng. Thứ hai, trẻ chích ngừa càng sớm càng êm, chích ngừa càng muộn, trẻ càng dễ sinh ra những phản ứng phụ hơn là nếu được chích ngừa sớm.

Giải thích thêm về điều đó, BS. Bảo Châu cho biết: “Khi các trẻ sơ sinh vừa sinh ra, hệ miễn dịch chưa đầy đủ, chưa đủ mạnh; đồng thời có thêm miễn dịch từ mẹ nên khi vắcxin vào cơ thể, hầu hết đáp ứng miễn dịch của trẻ diễn ra từ từ, miễn dịch từ mẹ giúp trẻ trung hòa dược lực của vắcxin”.

Con trẻ bị phơi nhiễm với hàng ngàn mầm bệnh hàng ngày từ môi trường sống. Điều này xảy ra thông qua thực phẩm trẻ ăn, không khí mà trẻ đang hít thở và tất cả những gì trẻ có thể cho vào miệng. Trẻ được sinh ra với hệ miễn dịch và sự hỗ trợ từ miễn dịch của người mẹ trong giai đoạn bào thai nên có thể chống lại phần lớn các mầm bệnh, tuy nhiên vẫn có những bệnh lý chết người mà bản thân trẻ không thể chống lại được. Đây là lý do vì sao trẻ cần vắc xin để tăng cường hệ miễn dịch.

Theo BS. Đông Châu, vắcxin sử dụng số lượng rất nhỏ kháng nguyên để giúp cho hệ miễn dịch của trẻ nhận biết và học cách chống lại những căn bệnh nguy hiểm. Kháng nguyên là những phần của mầm bệnh mà có thể kích hệ miễn dịch của trẻ hoạt động”.

Chủng ngừa cho trẻ càng sớm, phản ứng càng êm

Nhờ có những tiến bộ khoa học, những vắcxin hiện nay sử dụng số lượng kháng nguyên ít hơn vẫn có thể bảo vệ được trẻ. Vắcxin chứa mảnh nhỏ của các kháng nguyên mà trẻ tiếp xúc trong môi trường hàng ngày. Các chuyên gia khẳng định, chủng ngừa là biện pháp bảo vệ sự sống nhiều hơn bất cứ biện pháp can thiệp sức khỏe nào khác và góp phần làm giảm tỉ lệ mắc bệnh và tử vong do bệnh tật ở cả trẻ em lẫn người lớn.

Chủng ngừa có tốt hơn miễn dịch từ nhiễm bệnh tự nhiên?

BS. Đông Châu: chủng ngừa chắc chắn sẽ tốt hơn. Bởi vì, hệ miễn dịch tự nhiên của trẻ sẽ không gặp trở ngại gì khi tiếp nhận những vi trùng/virút giảm độc lực hoặc chết. Một vài phản ứng phụ xảy ra thường nhẹ (ví dụ: sốt, sưng đau tại chỗ) và kéo dài vài ngày cũng như không ảnh hưởng đến hoạt động hàng ngày của trẻ.

Theo BS. Đông Châu, chủng ngừa còn mang tính nhân văn vì không chỉ bảo vệ cho người được tiêm chủng mà còn bảo vệ những người xung quanh, đặc biệt là nhóm trẻ sơ sinh còn quá nhỏ để được chủng ngừa đầy đủ, cũng như những người/trẻ không thể chủng ngừa được vì những lý do y khoa riêng biệt.

Ngược lại, nếu trẻ mắc bệnh tự nhiên (ví dụ: bạch cầu, ho gà, uốn ván, bại liệt, viêm não Nhật Bản), hậu quả sẽ rất nghiêm trọng, thậm chí tử vong hoặc để lại di chứng suốt đời. Điều này bởi vì các tác nhân gây bệnh khi xâm nhập vào cơ thể trẻ sẽ nhân lên rất nhanh và hệ miễn dịch của trẻ không được chuẩn bị để chống lại chúng.

Tình hình dịch cúm trong thời gian qua tại TP.HCM vô cùng phức tạp, bác sĩ có lời khuyên nào dành cho các bậc cha mẹ?

BS. Đông Châu: do cách nói của người Việt Nam nên dễ bị lầm giữa “cảm cúm” và “ bệnh cúm”, do đó nhiều người có quan niệm sai lầm rằng bệnh cúm chỉ đơn giảm là bệnh “cảm lạnh thông thường” và không có khả năng nhập viện hoặc gây tử vong. Nhiều người còn cho rằng chỉ cần chích ngừa cúm cho trẻ 1 đến 2 lần hoặc khi còn nhỏ là đủ hoặc đợi đến khi trẻ lớn mới chích ngừa.

Vắcxin cúm được cấy trên trứng gà, nên không tiêm cho trẻ bị dị ứng với trứng gà. Vắcxin này phù hợp với các yêu cầu của Tổ chức Y tế Thế giới cho mùa cúm của từng năm và bao gồm 2 chủng cúm A ổn định (A/H1N1 và A/H3N2 có khả năng gây đại dịch) và 1 chủng cúm B - cúm mùa thông thường theo dự báo của WHO và thay đổi qua từng năm. Lứa tuổi có thể tiêm vắcxin cúm từ 6 tháng tuổi trở lên, và chích nhắc lại mỗi năm một lần.

Một số người còn cho rằng chích ngừa cúm cũng không có hiệu quả vì trẻ vẫn bị viêm đường hô hấp nhiều lần trong năm. Điều đó là một quan niệm sai lầm. Chủng ngừa cúm giúp chúng ta ngừa virus cúm. Virút cúm thường gây ra đại dịch cúm, khiến cho bệnh nhân diễn tiến nhanh với những bệnh cảnh rất nặng như viêm phổi, suy hô hấp thậm chí tử vong. Còn viêm đường hô hấp ở trẻ do nhiều loại virút, vi trùng khác không chỉ riêng virút cúm, hiếm khi gây ra các di chứng nặng nề.

Bên cạnh đó, để phòng ngừa viêm phổi và viêm màng não thường dễ diễn tiến nặng ở trẻ dưới 5 tuổi, các chuyên gia khuyến cáo nên tiêm ngừa vắcxin phế cầu 10 chủng cho trẻ nhỏ từ 6 tuần đến 5 tuổi. Vắcxin này giúp phòng ngừa các bệnh do phế cầu Streptococus pneumoniae tuýp huyết thanh 1, 4, 5, 6B, 7F, 9V, 14, 18C, 19F và 23F thường gây ra các bệnh cảnh viêm phổi, viêm màng não, nhiễm khuẩn huyết và viêm tai giữa. Mỗi năm, ước tính, trên thế giới có nửa triệu trẻ dưới 5 tuổi tử vong do các bệnh liên quan đến phế cầu. Đối tượng nguy cơ cao là trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ và người lớn tuổi. 40 - 70% trẻ khỏe mạnh dưới 5 tuổi mang vi khuẩn phế cầu vùng hầu họng, dễ gây lây lan qua đường hô hấp. Đặc biệt, hiện nay, phế cầu kháng thuốc kháng sinh rất nhiều.

AN QUÝ ghi

5 sai lầm thường gặp khi nuôi con

Hiện nay, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng thể nhẹ cân là 14,1%, suy dinh dưỡng thấp còi là 24,6%. Suy dinh dưỡng do nhiều nguyên ...